Văn bản pháp luật thực thi cam kết CPTPP ban hành chậm khiến việc tận dụng cơ hội của doanh nghiệp cũng chậm theo.
Tại hội thảo ngày 10/11, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam – VCCI) cho biết, trung bình mỗi văn bản pháp luật thực thi cam kết CPTPP ban hành chậm 246 ngày so với mốc hiệp định có hiệu lực (14/1/2019). Kết quả này được đơn vị này đưa ra sau quá trình rà soát, đánh giá tính hiệu quả quá trình xây dựng pháp luật thực thi cam kết CPTPP.
Hiệp định Thương mại Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã có hiệu lực gần 3 năm. Là hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, tiêu chuẩn cao, các cam kết của CPTPP tác động trực tiếp tới nhiều chế định pháp luật Việt Nam.
Để cam kết của Hiệp định này có hiệu lực ngay, Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung và “nội luật hoá” 11 văn bản pháp luật, thực thi 63 nhóm cam kết của CPTPP về mở cửa thị trường hàng hoá, quy tắc xuất xứ, dệt may, phòng vệ thương mại, mua sắm công, lao động…
Bà Nguyễn Thị Thu Trang đánh giá, phần lớn các quy định này đều tương thích với cam kết CPTPP, thậm chí một số quy định có nội dung vượt chuẩn cam kết, thực hiện ở mức cao hơn so với yêu cầu hoặc với lộ trình sớm hơn, chủ yếu liên quan tới quy trình đấu thầu gói thầu CPTPP. Chỉ có một trường hợp quy định chưa đủ để bảo đảm thực thi các cam kết CPTPP trên thực tế (về lập hội của người lao động), nên cần được điều chỉnh để đảm bảo tuân thủ.
Về thời điểm ban hành và hiệu lực các văn bản này, theo bà Trang, có 8 văn bản ban hành trong năm 2019 và 3 văn bản trong năm 2020. Ban hành chậm nhưng bà Trang khẳng định, về mặt pháp lý, các văn bản hướng dẫn thực thi cam kết CPTPP đều đáp ứng yêu cầu, đảm bảo về thời điểm có hiệu lực hiệp định và đều được hồi tố.
Nhưng ở góc độ doanh nghiệp, bà Trang cho rằng, “họ bị thiệt thòi, bởi việc ban hành chậm thì việc tận dụng cơ hội, quyền của doanh nghiệp cũng chậm theo, dù được hồi tố”.
Bà dẫn chứng, theo cam kết của CPTPP, khi doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu mỹ phẩm từ các nước thành viên không cần trình các giấy chứng nhận tự do lưu hành. Do văn bản thực thi cam kết của Việt Nam ban hành chậm 12 tháng, nên dù có quy định hồi tố, các doanh nghiệp có giao dịch, hồ sơ nhập khẩu mỹ phẩm trong khoảng thời gian tháng 1-12/2019 không được hưởng lợi từ cam kết của hiệp định.
Là cơ quan đầu mối thực thi CPTPP, ông Ngô Chung Khanh, Phó vụ trưởng Vụ Thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho hay, nhiều văn bản không chờ hướng dẫn phê chuẩn mới soạn nhưng vẫn bị ban hành chậm, chủ yếu do rà soát kỹ thuật kéo dài.
Ông ví dụ, khi rà soát để ban hành Nghị định biểu thuế xuất khẩu ưu đãi, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam thực thi CPTPP, cơ quan soạn thảo gặp vướng do cắt giảm thuế liên quan tới nhiều quốc gia và các thoả thuận giữa Việt Nam với đối tác, nên phải chờ giải thích… Vì thế, tới cuối tháng 6/2019, nghị định này mới được ban hành, tức chậm gần nửa năm so với thời điểm hiệp định CPTPP có hiệu lực.
Xem thêm >>> BÍ QUYẾT XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU CÔNG TY TỪ KHI THÀNH LẬP
Trong khi đó đề cập tình trạng ban hành các văn bản pháp luật nói chung, ông Cao Xuân Phong (Viện Khoa học pháp lý) cho rằng, việc chậm ban hành do cả lý do khách quan, chủ quan nhưng chủ yếu là đầu tư nguồn lực (nhân lực, kinh phí) chưa đầy đủ. “Nếu coi hoạt động xây dựng văn bản pháp luật chỉ là viết ra vài trang giấy thì không đúng. Phải có đầu tư đủ, bài bản cho các hoạt động này”, ông nêu.
Ngoài ra, theo bà Nguyễn Thị Thu Trang, các văn bản thực thi cam kết CPTPP vẫn gây ra một số vướng mắc, khó khăn cho doanh nghiệp, như trong lĩnh vực về đấu thầu, chứng minh quy tắc xuất xứ… Chẳng hạn, việc đưa ra quy định về quyền nhập khẩu ôtô đã qua sử dụng trong CPTPP lại theo các quy định nhập ôtô mới, nên 3 năm qua chưa có chiếc xe nào được nhập về.
Bà Phạm Chi Lan, nguyên Phó chủ tịch VCCI góp ý không chỉ đảm bảo tuân thủ các cam kết FTA, hệ thống pháp luật, thể chế trong nước tới đây cần “cao hơn hẳn hiện nay”, để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp.
“Môi trường pháp lý phải rộng hơn so với CPTPP, tiêu chuẩn phải cao hơn, thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, và phải có tầm nhìn xa hơn cho phát triển của Việt Nam trong tương lai, nếu muốn thành nước giàu vào năm 2045”, bà Lan nhìn nhận.
Ở khía cạnh này, Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập VCCI cũng nói, thay vì chỉ đưa ra các quy định đạt chuẩn theo cam kết của hiệp định thương mại đã ký, các văn bản pháp luật thực thi tới đây nên mở rộng hơn, vượt chuẩn cam kết để phù hợp với bối cảnh mới, tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp.
“Trong bối cảnh khó khăn nhiều bề, nhất là chịu tác động từ đại dịch, các cam kết có lợi của các FTA sẽ là cứu cánh cho doanh nghiệp”, bà Trang nêu.
Muốn vậy, bà khuyến nghị, cơ quan soạn thảo trong quá trình xây dựng các văn bản thực thi hiệp định thương mại tự do (FTA) cần rà soát tính tương thích với các cam kết FTA và tham vấn đầy đủ các đối tượng liên quan. Nội dung các văn bản nên “lên khung” càng sớm càng tốt, thậm chí từ khi văn kiện FTA được ký chính thức mà không chờ tới khi phê chuẩn.
(Theo Vnexpress)
Bạn đang đọc bài viết trên trang thông tin Ngoisaodoanhnhan.vn. Mọi thông tin đóng góp vui lòng gọi Hotline: 090 377 2086 hoặc gửi về địa chỉ email: bbt.ngoisaodoanhnhan@gmail.com.
Nếu Bạn cảm thấy bài viết mang lại giá trị hãy LIKE và SHARE nhé!